Thứ Hai, 20 tháng 2, 2017

[Giải phẫu] Túi tinh và ống phóng tinh - Seminal vesicles and ejaculatory ducts

Túi tinh và ống phóng tinh
(Seminal vesicles and ejaculatory ducts)

Cấu trúc đại thể

Túi tinh là cặp cơ quan tiết dịch nằm ở vị trí phía sau bàng quang và tiền liệt tuyến. Túi tinh là phần phồng ra (outpouching) phía bên của ống dẫn tinh, khả năng chứa khoảng 3-4 ml và kích thước bình thường không bị tắc nghẽn là 5-7cm chiều dài và 1.5cm chiều rộng. Túi tinh là một ống đơn được cuộn cao (highly coiled), có dạng nhiều chỗ phồng ra (outpouching), kéo thẳng dài tầm 15cm. Túi tinh và ống dẫn tinh hợp lại tạo nên ống phóng tinh. Áo cơ trơn từ túi tinh và ống dẫn tinh kết hợp với vỏ của tuyến tiền liệt tại đáy của tuyến tiền liệt. Ống bài tiết của túi tinh nối vào ống dẫn tinh khi nó đi vào tuyến tiền liệt.
Ống phóng tinh được đặt ở ngã ba với ống dẫn tinh và túi tinh. Ống phóng tinh là cơ quan đôi, cuối cùng xả thông qua ụ núi (verumontanum) vào niệu đạo tiền liệt tuyến. Ống phóng tinh được chia thành ba khu vực giải phẫu, gồm có vùng ngoài tiền liệt tuyến (extraprostatic) hay đầu gần (proximal), vùng trong tiền liệt tuyến (intraprostatic) hay khu vực giữa (mid) và vùng đầu xa (distal region) - nối cạnh bên của ụ núi để đổ vào niệu đạo tuyến tiền liệt (Nguyen et al, 1996). Ngược lại với hai vùng trước, vùng đầu xa thứ ba không được bao quanh bới một lớp cơ bên ngoài và không tạo thành một cơ vòng giải phẫu tại lỗ ống phóng tinh ở ụ núi (Nguyen et al, 1996).

Cấu trúc vi thể

Túi tinh có biểu mô trụ (columnar epithelium) với các tế bào cốc (goblet cells). Ống túi tinh được bao quanh với một lớn mỏng tế bào cơ trơn, được bao bọc bởi một áo mạch lỏng lẻo. Bộ ba lớp chứa các ống của túi tinh bao gồm một lớp màng nhầy bên trong, lớp giữa collagen và lớp bên ngoài cơ tròn và cơ dọc. Lớp cơ chiếm 80% độ dày của thành túi tinh (Nguyen et al, 1996). Niêm mạc mỏng, gấp của túi tinh gồm có các tế bào không mao (nonciliated), giả tầng (pseudostratifed) vuông đơn (cuboidal) hoặc tế bào trụ (columnar). Ống phóng tinh có cấu trúc vi thể tương tự như túi tinh, nhưng không có cơ tròn ở lớp ngoài như ở túi tinh (Nguyen et al, 1996). Lớp biểu mô bên trong của ống phóng tinh được cấu tạo bởi tế bào trụ đơn (simple columnar) và tế bào trụ giả tầng (pseudostratifed columnar).

Động mạch cấp máu

Động mạch cấp máu đến túi tinh có nguồn gốc từ động mạch bàng quang trên (superior vesical artery), tách ra động mạch túi tinh - ống dẫn tinh (vesiculodeferential artery). Động mạch túi tinh - ống dẫn tinh cấp máu cho mặt trước của túi tinh ở gần đỉnh. Động mạch chậu trong (internal iliac artery) và động mạch bàng quang dưới (inferior vesical artery) cung cấp động mạch bổ sung cho túi tinh qua nhánh tiền liệt - túi tinh (prostatovesicular branch) (Clegg, 1955). 
Các biến thể của động mạch bao gồm nhánh tiền liệt - túi tinh có nguồn gốc từ động mạch thẹn (pudendal artery) hoặc động mạch bàng quang trên. Động mạch cấp máu cho ống phóng tinh phát sinh từ nhánh động mạch bàng quang dưới.

Dẫn lưu tĩnh mạch

Tĩnh mạch túi tinh đi theo động mạch cấp máu qua tĩnh mạch túi tinh - ống dẫn tinh (vesiculodeferential vein) và đám rối bàng quang dưới (inferior vesical plexus) đến đám rối tĩnh mạch chậu (pelvic venous plexus).

Bạch mạch

Dẫn lưu bạch mạch từ túi tinh đến hạch chậu trong (Mawhinney and Tarry, 1991).

Thần kinh

Phân bố thần kinh đối giao cảm túi tinh xuất phát từ đám rối chậu với hệ thống thần kinh giao cảm góp các sợi từ thần kinh hạ vị và thần kinh lưng cao (Kolbeck and Steers, 1993). Đám rối chậu phân bố cho ống phóng tinh.

Siêu âm qua trực tràng (Transrectal Ultrasonography)

Túi tinh có thể hiển thị bằng siêu âm qua trực tràng, bằng cách xác định phía sau của đáy tuyến tiền liệt. Túi tinh xuất hiện giảm âm so với tuyến tiền liệt và có hình lưỡi liềm (crescent-shaped), tạo thành cặp và đối xứng. Túi tinh bình thương kích thước 2cm rộng và 4.5 -5.5 cm dài. Họ có thể hiển thị định hướng theo chiều ngang trong mặt phẳng ngang. Mô mỡ giảm âm có thể nhìn thấy, chia tách túi tinh từ đáy của tuyến tiền liệt. Ống phóng tinh đôi khi có thể thấy bởi siêu âm qua trực tràng, và nó xuất hiện giảm âm khi vào phía sau tuyến tiền liệt.

Chụp cắt lớp vi tính - Computer Tomography

Cắt lớp vi tính có thể hiển thị túi tinh. Kích thước túi tinh trên CT là 3cm chiều dài và 1.5 cm chiều ngang. Không có sự thay đổi đáng kể chiều dài túi tinh theo tuổi tác. Tuy nhiên chiều rộng của túi tinh nhỏ hơn khi tuổi tăng thêm. Đám rối tĩnh mạch thẹn (pudendal venous plexus) có thể xác định qua CT như các chấm nhỏ tăng mật độ dọc theo mặt bên của túi tinh (Silverman et al, 1985).

Chụp cộng hưởng từ (MRI - Magnetic Resonance Imaging)

MRI của túi tinh bình thường chứng tỏ cường độ tín hiệu giống như bàng quang hoặc cơ trên ảnh T1. Túi tinh thể hiện tín hiệu cao hơn tổ chứng mỡ xung quanh ở ảnh T2 (King et al, 1989; Secaf et al, 1991).

Bùi Vin  - 21.2.2017



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét